* ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH
    Xã Đăk Yă nằm ở phía Đông của huyện Mang Yang, diện tích tự nhiên là 3.702,34 ha, toàn xã có 1.231 hộ/4.632 nhân khẩu; trong đó dân tộc Bahnar có 371 hộ/1.668 khẩu; Đảng bộ xã có 181 đảng viên, sinh hoạt tại 10 chi bộ trực thuộc, tăng 45 đảng viên so với đầu nhiệm kỳ.
Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ IV, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, xã Đăk Yă vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức vì chịu tác động, ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, giá cả các sản phẩm nông nghiệp không ổn định; tình hình an ninh trật tự, an ninh nông thôn còn diễn biến phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân.
I- NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về kinh tế
Qua 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội, mặc dù tình hình phát triển kinh tế còn gặp khó khăn, tuy nhiên nhìn chung vẫn có sự tăng trưởng; cơ cấu kinh tế: nông nghiệp 60%; tiểu thủ công nghiệp 15%; dịch vụ thương mại 25%. Thu nhập bình quân đầu người là 38 triệu đồng/người/năm (đạt yêu cầu so với tiêu chí Nông thôn mới).
1.1. Về nông nghiệp, nông thôn
Cây trồng: Xã Đăk Yă có khoảng 70% người dân sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp, ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ 60% trong cơ cấu kinh tế của xã, vì vậy, xã xác định sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế chủ lực. Tổng diện tích gieo trồng năm 2015 là 1.212 ha, đến nay là 1.390 ha; chủ yếu là các loại cây trồng như: mỳ, lúa, ngô, cà phê, tiêu, cao su, chanh dây...; khoảng giữa nhiệm kỳ do cao su và tiêu mất giá nên số diện tích bị giảm đáng kể, thay vào đó là các loại cây khác như cà phê, chanh dây, cây ăn quả. Diện tích cụ thể các loại cây trồng chủ yếu tính đến cuối năm 2019 là: lúa cả năm 152 ha; ngô 10 ha; cây tinh bột có củ 17,2 ha; rau đậu các loại 40 ha; hồ tiêu 108 ha; cà phê 245,8 ha; cao su 125,5 ha; chanh dây 59 ha; cây ăn quả 42 ha đã góp phần đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp của xã. Người dân đã dần áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như sử dụng giống mới có năng suất chất lượng cao, có khả năng chống chịu sâu bệnh hại, nhờ vậy năng suất bình quân các loại cây trồng đều tăng, trong đó, năng suất lúa vụ đông xuân tăng từ 45 tạ/ha lên 52 tạ/ha, lúa vụ mùa từ 38 tạ/ha lên 42tạ/ha; tổng sản lượng lương thực có hạt cũng tăng dần qua các năm từ 635 tấn lên 743 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 160,4 kg/người/năm; việc áp dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm, mô hình trồng xen một số loại cây trên cùng một diện tích đất từ đó thu nhập trên một đơn vị diện tích cũng tăng lên rõ rệt. Các mô hình cải tạo vườn tạp, sản xuất hồ tiêu bền vững an toàn được thực hiện có hiệu quả, việc triển khai 2 chuỗi giá trị liên kết sản xuất chanh dây và cà phê đã tạo động lực để người dân tích cực sản xuất.
  Chăn nuôi: Bên cạnh phát triển trồng trọt thì ngành chăn nuôi cũng được quan tâm chỉ đạo phát triển theo hướng lai hóa dần đàn bò, nạc hóa đàn heo và đang được thực hiện có hiệu quả. Hiện nay tổng đàn trâu, bò của nhân dân là 1.414 con, trong đó tỷ lệ bò lai chiếm 70%, đàn heo 856 con, đàn dê 418 con, đàn gia cầm 6.750 con. Nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư hệ thống chuồng trại để chăn nuôi theo hướng công nghiệp. Công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm cũng được quan tâm chặt chẽ, nhất là các bệnh lở mồm long móng, tụ huyết trùng ở trâu, bò, lợn. Nhờ sự chỉ đạo kịp thời, đúng đắn trong công tác phòng và ngăn chặn bệnh nên tình hình dịch tả lợn Châu phi trên địa bàn xã được kiềm chế ngay khi phát hiện.
Về lâm nghiệp: Thường xuyên phối hợp với Ban quản lý rừng phòng hộ Mang Yang và Hạt kiểm lâm tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao ý thức cho nhân dân về luật bảo vệ và phát triển rừng; không để xảy ra tình trạng khai thác, lấn chiếm rừng trái phép, không để cháy rừng phòng hộ trên địa bàn xã.
1.2. Tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ
Đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương xây dựng Nông thôn mới, cải tạo bộ mặt nông thôn, phát huy mọi nguồn lực để phát triển nông nghiệp, nhằm đáp ứng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; một số ngành nghề khác cũng được hình thành, phát triển như: kinh doanh xăng dầu; mua bán, sửa chữa ô tô, xe máy, máy móc phục vụ nông nghiệp; mộc dân dụng; xay xát, may mặc, thu mua nông sản, các điểm mua bán vật tư nông nghiệp và các dịch vụ khác nhằm phục vụ đời sống và sinh hoạt của nhân dân.
Các Công ty sản xuất, chăn nuôi và các doanh nghiệp đứng chân trên địa bàn hoạt động hiệu quả cũng đã góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương.
Uỷ ban nhân dân xã tham mưu cho Uỷ ban nhân dân huyện thành lập và tiếp tục tìm các giải pháp hỗ trợ, tạo điều kiện cho hợp tác xã nông nghiệp, dịch vụ 386 và các tổ hợp tác xã nông nghiệp, dịch vụ trên địa bàn xã.
1.3. Kết quả triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về nông nghiệp, nông thôn, nông dân”; Chỉ thị số 36/CT-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh thực hiện hiệu quả, bền vững chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới; Nghị quyết số 03- NQ/TU ngày 19 tháng 7 năm 2011 của BCH Đảng bộ tỉnh (khóa XIV) về xây dựng Nông thôn mới tỉnh Gia Lai đến năm 2020; Chỉ thị số 12-CT/TU ngày 13/02/2018 của Tỉnh ủy Gia Lai về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp về xây dựng làng nông thôn mới trong ĐBDTTS trên địa bàn tỉnh; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Mang Yang; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Đăk Yă nhiệm kỳ 2015 – 2020, đến tháng 9/2015 xã Đăk Yă mới chỉ đạt 9/19 tiêu chí. Tuy nhiên, qua hơn một năm thực hiện với sự nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị và nhân dân, xã đã thực hiện hoàn thành 19/19 tiêu chí theo đúng quy định. Tháng 11/2016 xã Đăk Yă được UBND tỉnh công nhận xã đạt chuẩn Nông thôn mới. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân đã được cải thiện và nâng cao đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo giảm, hộ khá, giàu ngày càng tăng, an ninh chính trị được giữ vững, TTATXH ổn định; môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh.
Tháng 3 năm 2017 UBND tỉnh ban hành Quyết định số 250/QĐ – UBND về việc quy định các nội dung để thực hiện chương trình nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020. So với các nội dung của quy định mới này thì xã Đăk Yă chỉ đạt 16/19 tiêu chí còn lại 3 tiêu chưa đạt là tiêu chí số 6 (cơ sở vật chất văn hóa), tiêu chí số 10 (thu nhập); tiêu chí số 18 (hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật). Vì vậy, trong năm 2018 xã Đăk Yă tiếp tục phấn đấu giữ vững, củng cố 16 tiêu chí đã đạt đồng thời tiếp tục thực hiện hoàn thành 03 tiêu chí chưa đạt để giữ vững danh hiệu xã đạt chuẩn Nông thôn mới. Trong lộ trình xây dựng nông thôn mới hằng năm Đảng bộ xã đều có Nghị quyết chuyên đề về xây dựng nông thôn mới, lựa chọn tiêu chí trọng tâm, trọng điểm, dễ làm trước khó làm sau, tổ chức quán triệt chỉ đạo thực hiện bằng hình thức trực tiếp, gián tiếp thông qua quán triệt Nghị quyết, hội nghị, giao ban. Qua đó đánh giá các tiêu chí nào mà tự nội lực xã thực hiện được thì đề ra các biện pháp, kế hoạch để thực hiện, tiêu chí nào cần sự hỗ trợ của các cấp trên thì lên kế hoạch, đề xuất sự hỗ trợ, giúp đỡ của cấp trên. Toàn bộ hệ thống chính trị căn cứ nghị quyết của Đảng uỷ để phối hợp triển khai thực hiện, hướng dẫn Ban phát triển các thôn, làng tổ chức quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về ý nghĩa, mục đích xây dựng nông thôn mới đó là “dân làm dân hưởng lợi”, “Nhà nước và nhân dân cùng làm” từng bước làm thay đổi suy nghĩ, cũng như nhận thức của nhân dân, khuyến khích toàn thể nhân dân tiếp tục thực hiện chương trình NTM; nhân dân đã nhận thức đúng đắn về chủ trương chung nên tự nguyện đóng góp tiền, ngày công lao động cùng với sự hỗ trợ kinh phí của nhà nước để xây dựng thêm 02 phòng chức năng của Nhà văn hóa xã. Chính vì thế, cuối năm 2018 các cơ quan chuyên môn của huyện đã tổ chức thẩm định lại 19 tiêu chí NTM, qua kiểm tra xã đã đạt 19/19 tiêu chí và được công nhận lại xã đạt chuẩn NTM năm 2018.
Thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TU, ngày 13/02/2018 của Tỉnh uỷ Gia Lai về xây dựng làng NTM trong vùng đồng bào DTTS, năm 2019 Đảng ủy xã đã ban hành Nghị quyết số 70-NQ/ĐU, ngày 22/4/2019 để chỉ đạo tiến hành xây dựng làng Đăk Trôk đạt chuẩn làng NTM trong đồng bào dân tộc thiểu số. Để thực hiện hoàn thành 5 tiêu chí chưa đạt, trên tinh thần Nghị quyết của Đảng ủy, UBND xã xây dựng kế hoạch phối hợp với mặt trận và các đoàn thể cùng ban phát triển làng Đăk Trôk, sự hỗ trợ kinh phí của cấp trên cùng với sự góp công của Lữ đoàn 40 và nhân dân, làng Đăk Trôk đã xây dựng các cơ sở vật chất còn thiếu như: cổng, tường rào, nhà vệ sinh của nhà văn hóa, nhà vệ sinh hộ gia đình; thực hiện mô hình cải tạo vườn tạp bằng trồng bơ, cà phê để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập. Chỉ đạo Hội LHPN xã tiếp tục vận động chị em phụ nữ của làng Đăk Trôk tích cực hưởng ứng phong trào “5 không, 3 sạch”, “hàng rào xanh”. Đẩy mạnh hướng dẫn, vận động bà con nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao thu nhập, đến đầu năm 2020 đã được kiểm tra, xét đạt 19/19 tiêu chí làng Nông thôn mới trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Phát huy kết quả đạt được trong xây dựng NTM, Đảng uỷ tiếp tục chỉ đạo hệ thống chính trị luôn chú trọng, giữ vững và củng cố tất cả các tiêu chí đã đạt để xây dựng xã đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao trong những năm tiếp theo; đến cuối nhiệm kỳ 2015-2020 căn cứ theo các quy định tại Quyết định 301/QĐ – UBND ngày 04/7/2018 của UBND tỉnh Gia Lai về ban hành Bộ tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2018 – 2020 thì hiện nay xã Đăk Yă đạt được 13/19 tiêu chí, còn 6 tiêu chí chưa đạt (Tiêu chí 4: Điện, tiêu chí 10: Thu nhập, tiêu chí 12: Lao động có việc làm, tiêu chí 13: Tổ chức sản xuất, tiêu chí 14: Giáo dục và tiêu chí 17: Môi trường).
1.4. Công tác quản lý đất đai, khoáng sản, môi trường, xây dựng  
Thực hiện nghiêm chỉnh công tác quản lý quy hoạch và trật tự xây dựng theo đề án đã được phê duyệt; việc quản lý sử dụng đất được cấp ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm, căn cứ vào kết quả kiểm kê đất đai và hiện trạng sử dụng đất trên địa bàn xã, hàng năm cấp ủy, chính quyền chỉ đạo cán bộ chuyên môn thực hiện tốt việc quản lý quy hoạch, đồng thời hướng dẫn nhân dân trong việc đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Với chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm đều tăng và trong 5 năm qua đạt trên 6 tỷ đồng, cơ cấu đầu tư được bố trí hợp lý, có trọng điểm, trọng tâm, chất lượng công trình được quan tâm, ưu tiên các công trình phục vụ nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, y tế, trong đó có nhiều công trình được quan tâm, ưu tiên các công trình giao thông nông thôn, cơ sở vật chất có ý nghĩa quan trọng đã được đưa vào sử dụng góp phần đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Đến nay, 6/6 thôn làng có đường bê tông đến trung tâm xã; gần 10 km giao thông nông thôn đã được làm trong 5 năm qua; 100% thôn, làng có điện lưới quốc gia, tỷ lệ hộ dùng điện an toàn đạt 98%. Công tác bảo vệ môi trường sinh thái luôn được quan tâm, tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh đạt 100%, chủ yếu là dùng giếng đào.
Công tác bảo vệ môi trường, xã đã có tổ thu gom rác thải và có nghĩa trang chôn cất, cải táng bảo đảm vệ sinh môi trường. Công tác quản lý môi trường được quan tâm, từng bước thực hiện các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát, xử lý khắc phục ô nhiễm trong sản xuất và các hoạt động dễ phát thải ô nhiễm môi trường; công tác tuyên truyền và kiểm tra việc thực hiện cam kết bảo vệ môi trường được đẩy mạnh; ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân đã được nâng lên.
1.5. Hoạt động tài chính, ngân sách
Công tác thu ngân sách trên địa bàn được quan tâm chỉ đạo, thường xuyên phối hợp với cơ quan thuế cấp huyện thực hiện việc thu các loại trên địa bàn. Các nguồn thu chủ yếu trên địa bàn xã là thuế từ các hộ sản xuất kinh doanh, thuế TNCN từ chuyển quyền sử dụng đất, thuế GTGT, tiêu thụ đặc biệt. Trong giai đoạn hiện nay hoạt động SXKD gặp nhiều khó khăn do giá cả hàng hóa tăng cao theo chi phí đầu vào nhưng giá cả nông sản lại thấp, dẫn đến quá trình trao đổi hàng hóa có phần sụt giảm. Cụ thể: so với kế hoạch huyện giao, năm 2016 đạt 88,29%; năm 2017 đạt 92%; năm 2018 đạt 125,57%; năm 2019 đạt 85,74%. Chi ngân sách cơ bản đáp ứng nhu cầu hoạt động thường xuyên, công tác quản lý chi đảm bảo đúng nguyên tắc tài chính, Luật Ngân sách Nhà nước. Các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản hỗ trợ tập trung vào một số công trình xây dựng hạ tầng để đạt các tiêu chí về Nông thôn mới. Cụ thể, năm 2017 là xã đầu tiên của huyện đạt chuẩn Nông thôn mới. Việc triển khai dự án, thanh quyết toán các công trình xây dựng đảm bảo theo đúng quy định của Pháp luật.
1.6. Củng cố, phát triển các thành phần kinh tế
Tính đến nay, trên địa bàn xã có 05 doanh nghiệp và 144 hộ kinh doanh cá thể; trong những năm qua, đã thành lập được 09 tổ hợp tác, 01 hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ 386. Tuy nhiên do tình hình chung về kinh tế nên nhiều doanh nghiệp và hộ kinh doanh gặp khó khăn trong các hoạt động, các tổ hợp tác và hợp tác xã 386 hoạt động chưa hiệu quả, đang rất cần sự quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt của các cấp, các ngành.
2. Lĩnh vực văn hóa - xã hội
2.1.  Giáo dục - đào tạo
Tiếp tục triển khai thực hiện cuộc vận động “Hai không” và phong trào thi đua“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Đổi mới phương pháp, áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học nên chất lượng giáo dục và đào tạo từng bước được nâng lên, học sinh giỏi các cấp hàng năm đạt tỷ lệ cao; 63,17% học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học bậc THPT và trường nghề (đạt 73% chỉ tiêu); hoàn thành phổ cập giáo dục các cấp học; Tổng kết năm học 2018 – 2019, toàn xã có 1.045/512 học sinh nữ, trong đó: 362/178 học sinh nữ DTTS, với 37 lớp, trong đó 02 lớp ghép (bậc Tiểu học); 71 cán bộ, giáo viên, nhân viên; Cơ sở vật chất trường lớp và trang thiết bị dạy học được đầu tư theo hướng kiên cố và chuẩn hoá.
Trong nhiệm kỳ vừa qua, các trường trên địa bàn được quan tâm đầu tư cả về cơ sở vật chất cũng như nhân lực, cả 3 trường (nay sáp nhập còn 2 trường) đều được công nhận đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1.
Công tác khuyến  học – khuyến tài và tổ chức hoạt động của Hội Khuyến học trong 5 năm qua được quan tâm, Hội Khuyến học đã phối hợp tốt với các nhà trường trong việc khen thưởng, động viên học sinh khó khăn có tinh thần vượt khó và các gia đình hiếu học.
2.2. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
Thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo và hướng dẫn của cấp trên về ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động; phối hợp với bưu điện văn hóa xã tổ chức điểm truy cập thông tin trên địa bàn; ứng dụng các dự án trong sản xuất nông nghiệp như tưới tiết kiệm bằng phương pháp nhỏ giọt...v.v tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong sản xuất.
2.3. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân
Trạm Y tế xã ngày càng được củng cố, kiện toàn, việc cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế được quan tâm; công tác phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, nhất là các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân tộc thiểu số ngày càng được nâng lên; 6/6 thôn, làng đã có cán bộ y tế thôn bản và thường xuyên được kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động. Trạm y tế xã có 05 nhân lực (trong đó: 01 bác sỹ, 01 nữ hộ sinh, 02 điều dưỡng trung học và 01 dược sỹ trung học). Năng lực của đội ngũ viên chức ngày càng được nâng cao, chất lượng khám, chữa bệnh từng bước được cải thiện đáng kể.
Các chính sách về dân số, kế hoạch hoá gia đình, trẻ em, các chương trình y tế quốc gia được triển khai có hiệu quả; giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 1,5% còn 1,13%. Trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng về cân nặng 17,3%, về chiều cao 18,4%. Công tác truyền thông dân số được triển khai rộng khắp, việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em được các cấp quan tâm và hỗ trợ kịp thời.
2.4. Văn hóa thông tin, thể dục thể thao
Hoạt động văn hóa thông tin đã kịp thời tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đến cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện trọng đại của đất nước và địa phương. Trong những năm qua được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, sự hỗ của các doanh nghiệp và cá nhân nên phong trào thể dục thể thao quần chúng đã phát triển rộng khắp trên địa bàn xã; đông đảo nhân dân tích cực tham gia hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Hằng năm đều tổ chức ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân, đã huy động được toàn thể cán bộ, công chức, đoàn viên, hội viên, học sinh, lực lượng dân quân và đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, cũng như tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao cấp xã lần thứ IV; tham gia đầy đủ các phong trào văn hóa, thể dục thể thao do huyện tổ chức và đạt nhiều thành tích cao.
Hàng tuần, tháng đều có tin bài về các hoạt động của địa phương đưa lên trên trang thông tin điện tử của xã. Trong năm 2019 đã lắp đặt hệ thống đài truyền thanh, toàn xã với 6/6 thôn, làng đều có cụm loa không dây để thực hiện công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước qua kênh đài Trung ương, tỉnh, huyện.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” phát triển sâu rộng, chất lượng và hiệu quả các danh hiệu văn hóa từng bước được nâng lên, hàng năm đều tổ chức xét duyệt gia đình văn hóa, năm 2015 đạt 88,43% đến năm 2019 đạt 92,12%. Tất cả 6/6 thôn, làng đều đạt danh hiệu văn hóa, cơ quan đạt chuẩn văn hóa. Các thôn, làng đều có nhà văn hóa đáp ứng nhu cầu hội họp, học tập và tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ. Thường xuyên sửa đổi, bổ sung hương ước, quy ước phù hợp với tình hình của từng thôn, lấy đó làm quy chuẩn xóa bỏ các hủ tục lạc hậu; phát triển các hình thức hoạt động văn hóa lành mạnh, xây dựng đời sống văn hóa, văn minh và tiến bộ xã hội; phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư.
2.5. Thực hiện các chính sách xã hội
Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác giảm nghèo; tập trung chăm lo cho các hộ nghèo thông qua các chương trình hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi, cấp phát thẻ BHYT miễn phí, miễn giảm học phí cho con, em thuộc hộ nghèo, xây dựng nhà đại đoàn kết… Đầu nhiệm kỳ, toàn xã có 1.006 hộ, trong đó có 73 hộ nghèo (chiếm 7,26%) và 161 hộ cận nghèo (chiếm 16%); đến cuối năm 2019, toàn xã có 1.231 hộ, trong đó có 66 hộ nghèo (chiếm 5,36%) và 186 hộ cận nghèo (chiếm 15,11%)
Thực hiện các chế độ chính sách cho người có công đầy đủ, kịp thời, đa số các gia đình chính sách, người có công đều có cuộc sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của xã hội. Tổ chức điều tra, rà soát đề nghị cấp trên giải quyết dứt điểm các chế độ chính sách cho các đối tượng được hưởng chế độ theo Quyết định như QĐ 142, QĐ 290, QĐ 62…
Tổ chức huy động và sử dụng có hiệu quả các loại quỹ như: quỹ đền ơn đáp nghĩa 46.612.000 đồng, quỹ vì người nghèo 47.500.000 đồng; đề nghị xây mới 06 căn nhà đại đoàn kết; hoàn thành việc xây dựng và sữa chữa nhà ở cho gia đình chính sách NCC có khó khăn về nhà ở theo Quyết định số: 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính Phủ (trong đó: xây mới 01 căn với số tiền 50 triệu đồng, sửa chữa 06 căn với tổng số tiền 120 triệu đồng).
Công tác đào tạo nghề nông thôn được quan tâm triển khai có hiệu quả, trong nhiệm kỳ qua có 267 lao động được đào tạo nghề, các lao động đã phát huy khả năng góp phần đẩy mạnh công tác giảm nghèo trên địa bàn xã.
2.6. Việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo
Triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo, chương trình hỗ trợ về giáo dục, y tế tại 02 làng đồng bào DTTS; các chính sách về hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nhà ở và nước sinh hoạt ngày càng phát huy tác dụng, góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân tộc thiểu số; giải quyết những vướng mắc trong cộng đồng dân cư, đấu tranh đẩy lùi, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu.
Toàn xã có 824 tín đồ tôn giáo (trong đó: Phật giáo 130 hộ/ 339 khẩu, Công giáo 109 hộ/451 khẩu, Cao đài 11 hộ/31 khẩu, tin lành 02 hộ/03 khẩu) và 01 cơ sở thờ tự (Giáo xứ Châu Khê); hầu hết giáo dân là nhân dân lao động, có tinh thần yêu nuớc, đoàn kết thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh; các chức sắc tôn giáo tại địa phương luôn vận động giáo dân xây dựng cuộc sống “Tốt đời đẹp đạo”, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện phát triển kinh tế, giúp nhau giảm nghèo.
 Cấp uỷ, Chính quyền xã luôn làm tốt công tác phối hợp, hướng dẫn các tổ chức tôn giáo sinh hoạt và hành đạo theo đúng quy định của pháp luật. Các chức sắc, tín đồ tôn giáo luôn đồng tình, yên tâm và tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương. Phối hợp thực hiện tốt các hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, cụ thể như đăng ký tổ chức các hoạt động nhân dịp lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh hàng năm; nhà chùa, giáo sứ và cấp uỷ, chính quyền thường xuyên tổ chức giao lưu, thăm hỏi, tặng quà nhân dịp những ngày lễ, tết.
2.7. Các phong trào thi đua yêu nước
Nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức các phong trào thi đua yêu nước tiếp tục được đổi mới, qua đó kịp thời phát hiện, biểu dương người tốt việc tốt, nhân rộng những điển hình tiên tiến ở các cấp, các ngành và trong các tầng lớp nhân dân.
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ, 08 lượt tập thể, cá nhân được tỉnh tặng Bằng khen, 17 đồng chí được công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua các cấp; 85 lượt tập thể, cá nhân được huyện tặng Giấy khen. 
Đảng uỷ đã tổ chức xét tặng giấy khen cho 17 tập thể và 36 cá nhân có thành tích tốt trong thực hiện nhiệm vụ gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
3. Quốc phòng - an ninh
3.1. Công tác Quốc phòng, quân sự địa phương
Trong nhiệm kỳ qua dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự huyện, Ban CHQS huyện, trực tiếp là Đảng ủy, UBND xã, sự phối hợp của các ban ngành, đoàn thể từ xã đến các thôn, làng, Ban CHQS xã đã triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ QP, QSĐP xây dựng nền QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày một vững chắc góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, củng cố QP&AN ở địa phương.
Nhận thức sâu sắc vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng nền QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Những năm qua, Đảng ủy, UBND xã đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, của Tỉnh ủy, UBND Tỉnh, Huyện về xây dựng nền QPTD, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành KVPT vững chắc trong tình hình mới; Luật Quốc phòng; Luật Dân quân tự vệ.
Lực lượng dân quân, DBĐV được biên chế đúng quy định, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Kết hợp chặt chẽ xây dựng Đảng bộ xã trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan vững mạnh toàn diện, đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ làm tham mưu và khả năng SSCĐ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Đảng ủy, HĐND - UBND xã đã ban hành đầy đủ hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo về xây dựng và hoạt động KVPT. Hàng năm, kịp thời ban hành các Nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo, kế hoạch tổ chức thực hiện công tác QP&AN; Tổ chức quán triệt, triển khai nghiêm túc các văn bản của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Huyện ủy về nhiệm vụ xây dựng, hoạt động KVPT cho cán bộ chủ chốt các ban, ngành, đoàn thể của xã, các thôn, làng và nhân dân trong khu dân cư. Thường xuyên kiện toàn các Hội đồng, các Ban chỉ đạo, các Tiểu ban thực hiện nhiệm vụ QP&AN của xã, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên, kết quả đó đã thể hiện và phát huy tốt cơ chế  trong diễn tập năm 2019 "Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự, công an và các ban, ngành, đoàn thể làm tham mưu".
Trong giai đoạn 2009- 2019 đã tổ chức biên chế 1.157 dân quân trong độ tuổi. Sắp xếp biên chế hàng năm 26 đồng chí cán bộ Ban chỉ huy, thôn đội trưởng, trung đội trưởng, tiểu đội trưởng dân quân, đảm bảo đúng tiêu chuẩn, chất lượng, tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đúng nguyên tắc, phát huy đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ qua quân ngũ làm nòng cốt cho lực lượng dân quân, tiến hành chi trả phụ cấp trách nhiệm hàng tháng cho cán bộ dân quân đảm bảo đúng nguyên tắc tài chính.
Nhiệm vụ huấn luyện hàng năm đều được cấp ủy, chính quyền, các ban ngành đoàn thể quan tâm góp phần củng cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh gắn với thế trận an ninh nhân dân, đồng thời tổ chức huấn luyện theo đúng nội dung, chương trình quy định. Xây dựng lực lượng DQ có quy mô và tổ chức biên chế phù hợp, nâng cao trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, duy trì tỷ lệ DQ đạt 2,2% dân số theo quy định của Luật DQ, trong đó tỷ lệ đảng viên chiếm từ 15% đến 20%; Trong nhiệm kỳ đã tổ chức huấn luyện và giao quân huấn luyện được 455 lượt cán bộ, chiến sỹ, 100% đạt yêu cầu, trong đó 75% trở lên khá, giỏi.
Trong nhiệm kỳ, Ban CHQS xã đã tham mưu với Cấp ủy, chính quyền xây dựng kế hoạch tổ chức đăng ký độ tuổi 17 cho 229 công dân trong độ tuổi diện đăng ký và 1.470 công dân trong độ thực hiện NVQS (trong đó đủ điều kiện sơ tuyển 386 công dân, lập danh sách đề nghị khám tuyển 315 công dân); Tổ chức giao quân nhập ngũ 65 công dân.
Tổ chức đăng ký, rà soát, phúc tra, điều chỉnh, sắp xếp đủ quân số cho các đơn vị DBĐV theo chỉ tiêu trên giao, tập trung nâng cao tỷ lệ đảng viên trong lực lượng DBĐV. Hàng năm, động viên huấn luyện, kiểm tra sẵn sàng động viên bảo đảm 100% chỉ tiêu. Có 165 QNDB hạng I tham gia kiểm tra, huấn luyện và diễn tập. (Hiện nay QNDB hạng I: 133 đ/c; QNDB hạng II: 420đ/c)
Quan tâm thực hiện tốt chế độ chính sách đối với người có công, chính sách hậu phương quân đội, chính sách với quân nhân tham gia kháng chiến đã phục viên, xuất ngũ theo Quyết định 62, QĐ 49 của Thủ tướng Chính phủ.
Trong nhiệm kỳ đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương cử đi bồi dưỡng và kết hợp tổ chức mở lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng & an ninh theo phân cấp với quân số trên 158 đồng chí tham gia.
Chi bộ Quân sự hiện nay có 10 đảng viên; toàn lực lượng dân quân có 21 đảng viên (chiếm 20,2%) và 81 đoàn viên (chiếm 77,9%); Năm 2019 chi bộ quân sự đạt nhiều thành tích xuất sắc và được chọn đi báo cáo điển hình tại quân khu.
3.2. Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Thực hiện có hiệu quả phương châm “Tỉnh nắm đến xã; Huyện nắm đến thôn, làng; Xã nắm đến từng hộ dân”. An ninh chính trị, an ninh nông thôn, an ninh học đường và an ninh xã hội luôn được giữ vững. Các vụ, việc tranh chấp đất đai, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân được giải quyết kịp thời, ổn định, không để phát sinh “điểm nóng”; công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng, tổ chức lực lượng tuần tra, kiểm soát tình hình chấp hành giao thông trên địa bàn góp phần kiềm chế tai nạn giao thông, ý thức chấp hành pháp luật của các tầng lớp nhân dân ngày càng được nâng lên. Công an xã thường xuyên phối hợp với Ban Chỉ huy quân sự xã và Mặt trận, các đoàn thể, đặc biệt là Ban nhân dân các thôn nhằm huy động cả hệ thống chính trị tham gia phong trào “quần chúng bảo vệ An ninh Tổ quốc”. Tình trạng nghi ngờ “thuốc thư” đã được ngăn chặn, góp phần quan trọng đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Hàng tháng, quý giao nhiệm vụ cho Công an xã phối hợp với cán bộ tư pháp thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân trên địa bàn xã, đặc biệt là hai làng đồng bào DTTS; tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân tại trụ sở và tích cực tham gia vào công tác hòa giải các mâu thuẫn tranh chấp nhỏ tại các thôn, làng.
Trong nhiệm kỳ, tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định. Chủ động triển khai thực hiện hiệu quả công tác nắm tình hình, quản lý địa bàn, đối tượng. Xác định các địa bàn, lĩnh vực phức tạp về ANTT, qua đó đề ra kế hoạch, biện pháp phù hợp để đấu tranh, phòng ngừa từ xa, không để bị động, bất ngờ; giải quyết ổn định, dứt điểm các vụ việc liên quan đến ANTT ngay từ khi mới phát sinh tại cơ sở.
Công tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và hành vi vi phạm pháp luật về ANTT luôn được quan tâm, triển khai thực hiện thường xuyên có hiệu quả. Thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục đối tượng theo quy định của pháp luật, nhất là đối với những đối tượng tù tha, đối tượng thanh thiếu niên hư, càn quấy…
Công tác quản lý Nhà nước về ANTT nhất là công tác cải cách hành chính luôn được đẩy mạnh và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Làm tốt công tác quản lý cư trú, trong đó tập trung trong công tác đăng ký, quản lý nhân hộ khẩu; công tác kiểm tra tạm trú, lưu trú được thực hiện thường xuyên, qua đó đã kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh đối với các hộ gia đình, nhất là đối với cơ sở cho thuê nhà trọ trên địa bàn. Tổ tự quản về ATGT luôn được duy trì, củng cố và hoạt động hiệu quả. Công tác quản lý vũ khí, vật liệu nổ, CCHT; công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn cứu hộ được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định.
Đẩy mạnh phong trào Toàn dân bảo vệ ANTQ gắn với triển khai thực hiện Thông tư số 23/2012/TT-BCA, ngày 27/4/2012 của Bộ Công an quy định về khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt chuẩn “An toàn về ANTT”; phát huy hiệu quả các Tổ ANND tại các thôn, làng. Thực hiện tốt công tác phối hợp giữa lực lượng Công an xã với BCH Quân sự xã và Mặt trận, các đoàn thể nhất là Ban nhân dân các thôn nhằm huy động cả hệ thống chính trị tham gia phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ.
4. Công tác xây dựng Đảng
4.1. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng
Giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của Đảng bộ; việc nghiên cứu, quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước được triển khai kịp thời, sâu rộng. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công cuộc đổi mới ở nước ta. Khơi dậy truyền thống đoàn kết, yêu nước của đồng bào các dân tộc, làm cho quần chúng ngày càng phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phản bác lại luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch.
Trên cơ sở quán triệt, nhận thức sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) “về ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá trong nội bộ”, Đảng ủy đã cụ thể hóa bằng chương trình, kế hoạch phù hợp với thực tiễn để tổ chức thực hiện và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Một trong những kết quả đó là sự chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng Đảng ngày càng đông về số lượng, mạnh về chất lượng. Công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên có sự chuyển biến rõ nét, nội dung, chất lượng sinh hoạt chi bộ có nhiều đổi mới và nâng cao, trong sinh hoạt chi bộ gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên được tăng cường với nhiều hình thức, biện pháp phù hợp. Trong nhiệm kỳ không có tình trạng thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, tham nhũng, lãng phí, vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến mức phải xử lý kỷ luật. Nhìn chung, qua 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ, các chi bộ, sự đoàn kết, thống nhất được nâng cao; kỷ luật, kỷ cương được tăng cường; tinh thần trách nhiệm, tính năng động, sáng tạo trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức được nâng lên rõ rệt, góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội.
Công tác sắp xếp, bố trí, quy hoạch cán bộ được đặc biệt quan tâm, tiến hành đúng quy trình, quy định, dân chủ, công khai, minh bạch. Chất lượng, hiệu quả hoạt động, phong cách làm việc có nhiều chuyển biến trên các mặt; cấp ủy thường xuyên rà soát, bổ sung quy chế làm việc, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cá nhân, nhất là người đứng đầu. Qua đó, trách nhiệm của tập thể và từng thành viên trong cấp ủy được nâng lên, khắc phục tình trạng chồng chéo, bao biện, hoặc trông chờ, ỷ lại tạo được sự đồng thuận và giải quyết công việc đồng bộ hơn; trong lãnh đạo, chỉ đạo xử lý của cấp ủy kiên quyết, mạnh mẽ hơn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để chủ động ngăn ngừa và kiên quyết xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm, nhằm giữ gìn kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.
4.2. Công tác Tổ chức, xây dựng Đảng và đảng viên
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng uỷ thường xuyên được đổi mới, phù hợp với thực tiễn. Việc mở rộng, phát huy dân chủ và đảm bảo các nguyên tắc tổ chức trong sinh hoạt Đảng được chú trọng, vừa đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và quyết định những vấn đề trọng yếu của Đảng bộ, vừa phát huy được vai trò chủ động của Chính quyền và tính tích cực, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể; ngăn chặn tình trạng bao biện, làm thay, quan liêu, xa dân hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong sinh hoạt Chi bộ và trong phân loại đánh giá chất lượng đảng viên, phát triển đảng viên đã gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. 
Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng ngày càng được chú trọng. Đầu nhiệm kỳ toàn Đảng bộ có 12 chi bộ, đến nay còn 10 chi bộ (do sáp nhập thôn và trường học), tổng số 181 đảng viên (tăng 45 đảng viên so với đầu nhiệm kỳ); 6/6 chi bộ thôn, làng có chi uỷ (đạt 100%); cử 52 quần chúng học lớp nhận thức về Đảng, kết nạp được 39 đảng viên; hàng năm, 100% chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ; 100% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ (trong đó 80% trở lên hoàn thành tốt nhiệm vụ)
4.3. Công tác cán bộ
Công tác tổ chức cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cùng với công tác bảo vệ chính trị được chú trọng và có bước đổi mới; hàng năm theo quy định và hướng dẫn của Huyện uỷ, Ban Chấp hành Đảng bộ luôn làm tốt công tác quy hoạch và bổ sung quy hoạch; việc xây dựng, bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số và cán bộ nguồn được quan tâm. Trong nhiệm kỳ đã cử 04 đồng chí đi học Trung cấp lý luận chính trị; 04 đồng chí đi học đại học (có 04 đồng chí khác tự đăng ký học trình độ đại học), cử 08 đồng chí học các lớp sơ cấp lý luận chính trị, công tác cử cán bộ đi bồi dưỡng chuyên môn được duy trì thường xuyên. Hầu hết cán bộ được bổ nhiệm đều qua đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, bước đầu đã phát huy vai trò, góp phần xây dựng, củng cố hệ thống chính trị; kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng – an ninh được giữ vững.
4.4. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được thực hiện thường xuyên thông qua công tác kiểm tra, giám sát; tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của các tổ chức chính trị xã hội trong việc tham gia xây dựng Đảng ngày càng được nâng lên, góp phần xây dựng Đảng bộ vững mạnh. Uỷ ban kiểm tra làm tốt công tác tham mưu cho Đảng uỷ về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; hàng năm tập trung vào việc kiểm tra, giám sát thực hiện các nhiệm vụ chính trị, việc thực hiện Chỉ thị, nghị quyết, Điều lệ Đảng. Trong nhiệm kỳ Uỷ ban kiểm tra đã tổ chức kiểm tra và tham mưu cho Đảng uỷ kiểm tra được 12 lượt tập thể chi bộ và 24 đồng chí đảng viên thuộc diện bí thư, phó bí thư; các chi bộ hàng năm tự kiểm tra, giám sát đối với đảng viên đạt tỷ lệ trên 60%; phát hiện, xử lý kỷ luật 02 đảng viên với hình thức khiển trách; giải quyết kịp thời, hiệu quả các đơn thư kiến nghị.
4.5. Công tác dân vận
Công tác dân vận đã góp phần định hướng, triển khai thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với quần chúng nhân dân; tập trung tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương TW 7 khoá XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; thực hiện tốt công tác dân tộc, công tác tôn giáo, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Việc thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo”, thực hiện Quy chế dân chủ đã được cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các ban ngành, đoàn thể từ xã đến thôn, làng tham gia hưởng ứng, thực hiện có hiệu quả; các đơn vị đứng chân trên địa bàn đã phối hợp với địa phương trong các phong trào như xây dựng Nông thôn mới, phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc góp phần làm tốt công tác vận động quần chúng.
4.6. Việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
Công tác tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai Cuộc vận động được cấp ủy Đảng chú trọng thực hiện phù hợp với đặc điểm tình hình của xã, qua đó phát hiện kịp thời các tấm gương điển hình trong việc làm theo tấm gương đạo đức của Bác; Đảng bộ xã có 04 lượt tập thể, cá nhân được Huyện uỷ tặng Giấy khen. Nhìn chung, Cuộc vận động đã được triển khai sâu rộng, hiệu quả và có sức lan toả trong xã hội, nhận thức của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực; tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng tốt hơn; trách nhiệm và hiệu quả công tác từng bước được nâng lên, góp phần đáng kể vào việc đấu tranh, phòng chống tham nhũng, lãng phí, ngăn chặn tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống góp phần xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
5. Công tác xây dựng Chính quyền
HĐND - UBND xã đã từng bước đổi mới phương thức hoạt động thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ theo Luật Tổ chức Chính quyền địa phương. Chất lượng các kỳ họp được nâng lên, việc thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền được thực hiện công khai, dân chủ và trách nhiệm; các ý kiến, kiến nghị của cử tri được HĐND - UBND xã, các ban ngành tiếp thu, chấn chỉnh và xem xét, giải quyết kịp thời, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng hoạt động của quyền địa phương.
Trong nhiệm kỳ, Cấp uỷ, chính quyền thực hiện tốt Nghị định 92/NĐ-CP về chức danh, số lượng, một số chế độ đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; thực hiện nghiêm chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện. Các chức danh công chức được củng cố, kiện toàn và hoạt động đi vào nề nếp. Công tác cải cách hành chính được nghiêm túc thực hiện; thường xuyên truyên truyền, vận động đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện tốt luật phòng chống tham nhũng.
Công tác cải cách hành chính được cấp trên quan tâm chỉ đạo, Uỷ ban nhân dân xã thường xuyên rà soát và tổ chức thực hiện nghiêm các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã, quan tâm xây dựng và nâng cao chất lượng cán bộ công chức đồng thời phân công cán bộ hợp lý nhằm đảm bảo hoàn thành tốt các nhiệm vụ; tiếp tục thực hiện nghiêm chủ trương hiện đại hoá nền hành chính công, đẩy mạnh thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin theo hệ thống quản lý chất lượng tiêu chuẩn ISO 9001:2015 nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cấp xã; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng được đẩy mạnh và hướng về thôn, làng; công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được thực hiện đúng pháp luật góp phần giải quyết kịp thời, hiệu quả những đơn thư, kiến nghị, phản ánh của nhân dân.
6. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các hội đoàn thể chính trị xã hội
Mặt trận Tổ quốc và các Hội, đoàn thể tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng của đoàn viên, hội viên; triển khai có hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” và phát huy dân chủ ở cơ sở; vai trò giám sát, phản biện xã hội ngày càng được tăng cường, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Thông qua các hoạt động sinh hoạt đoàn, hội và việc thực hiện dân chủ tại thôn, làng các tổ chức như Mặt trận, đoàn thể đã đưa nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã đến với nhân dân và được tổ chức thực hiện có hiệu quả; cụ thể như đã làm tốt cuộc vận động làm thay đổi nếp nghĩ cách làm trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thể hiện rõ vai trò tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền thông qua việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng uỷ, kế hoạch của Uỷ ban nhân dân xã và phối hợp tốt với các chi bộ và ban nhân dân các thôn, làng. Hiệu quả hoạt động của Mặt trận, đoàn thể được thể hiện rõ nét thông qua việc xây dựng kế hoạch hằng năm nhằm thực hiện sự chỉ đạo của Đảng uỷ về triển khai Quyết định số: 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số: 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị– xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Thường xuyên phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã và Ngân hàng chính sách tạo điều kiện cho đoàn viên, hội viên vay vốn phát triển sản xuất, góp phần chăm lo tốt hơn những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân; thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ làm cầu nối nhằm tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
II- ĐÁNH GIÁ CHUNG, NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Đánh giá chung
Các chỉ tiêu về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội cơ bản đều vượt và đạt so với Nghị quyết Đại hội IV đề ra; các chính sách về dân tộc, tôn giáo, an sinh xã hội  được thực hiện đúng quy định; công tác giảm nghèo đạt kết quả tốt; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh trong toàn xã có nhiều chuyển biến tích cực, được thể hiện rõ trong nhiệm kỳ 2015 - 2020 toàn Đảng bộ đã quyết tâm phấn đấu xây dựng đạt chuẩn Nông thôn mới, giảm được 01 thôn đặc biệt khó khăn (thôn Mỹ Yang) và đã xây dựng thành công 01 làng Nông thôn mới trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số (làng Đăk Trôk).
Quốc phòng – an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được đảm bảo. Công tác huấn luyện, diễn tập theo nghị quyết trung ương đạt khá; giao quân đạt chỉ tiêu trên giao, lực lượng dự bị động viên và dân quân ngày càng được củng cố, chất lượng được nâng lên.
Hệ thống chính trị tiếp tục được kiện toàn; phương thức lãnh đạo của Đảng có nhiều đổi mới, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu được nâng lên. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW 4 (khóa XI; XII) và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Mặt trận và các đoàn thể chủ động thực hiện nghiêm túc vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; phát huy dân chủ ở cơ sở, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố niềm tin của nhân dân; đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
2. Những hạn chế, khuyết điểm
Kinh tế phát triển chưa bền vững, các loại hình dịch vụ phát triển chậm, kinh tế hợp tác xã, tổ hợp tác, kinh tế trang trại còn nhỏ về quy mô, ít về số lượng và hoạt động chưa thực sự hiệu quả; chăn nuôi và các dịch vụ cung ứng cho phát triển nông nghiệp còn thấp.
Cơ sở vận chất trường lớp và chất lượng giáo dục đã được nâng lên, tuy nhiên vẫn còn sự chênh lệch giữa các thôn, làng; trang thiết bị y tế và đội ngũ y bác sỹ Trạm y tế xã còn thiếu; cơ sở vật chất trang bị cho các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao đã được củng cố, tuy nhiên các phong trào còn hạn chế; đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
An ninh chính trị được giữ vững, song tình hình TTATXH còn tiềm ẩn phức tạp như: tình trạng tranh chấp đất đai, xây dựng lấn chiếm hành lang an toàn đường bộ, tai nạn giao thông, trộm cắp, đánh nhau vẫn còn xảy ra. 
Năng lực, hiệu quả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ có lúc, có nơi còn chưa cao; hiệu quả trong công tác vận động, hoà giải vẫn còn hạn chế; chất lượng hoạt động của các ban công tác mặt trận chưa đồng đều.
2.1. Nguyên nhân kết quả đạt được
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện và sự giúp đỡ, hướng dẫn của các phòng ban chuyên môn đã tạo điều kiện thuận lợi cho cấp uỷ, chính quyền xã vượt qua những khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ.
Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân xã luôn bám sát nghị quyết đại hội đề ra để xây dựng nghị quyết, kế hoạch hằng năm nhằm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát các nhiệm vụ; tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan, đơn vị đứng chân trên địa bàn, chỉ đạo chặt chẽ các tổ chức xã hội trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; bên cạnh đó tăng cường thực hiện dân chủ trong Đảng, tạo sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân. Đội ngũ cán bộ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực trong công tác, luôn gương mẫu chấp hành và thực hiện tốt nghị quyết của Đảng uỷ, kế hoạch của Uỷ ban nhân dân xã; các tầng lớp nhân dân luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
2.2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém
Điều kiện thổ nhưỡng không thật sự phù hợp với cây trồng, sản xuất manh mún, năng lực sản xuất chưa đáp ứng yêu cầu. Chịu tác động, ảnh hưởng xấu của thời tiết diễn biến bất thường, giá cả bấp bênh, sản phẩm làm ra bán thô chưa qua chế biến nên lợi nhuận không cao.
Trình độ dân trí, nhận thức của một bộ phận nhân dân còn hạn chế; việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất chưa đồng đều; một bộ phận người dân tộc thiểu số vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước.
Năng lực lãnh đạo của một số chi bộ còn hạn chế, chưa có sự nghiên cứu, sáng tạo trong công việc; công tác kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả; việc củng cố các tổ chức chi đoàn, chi hội còn gặp nhiều khó khăn.
3. Bài học kinh nghiệm
Một là, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, tăng cường sự đoàn kết nội bộ, thống nhất ý chí và hành động; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, phát huy tinh thần, trách nhiệm của người đứng đầu, trí tuệ của tập thể Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, chỉ đạo thực hiện nghiêm các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, đồng thời áp dụng linh hoạt và phù hợp với tình hình thực tiễn của xã.
Hai là, tranh thủ tối đa các nguồn lực, phát huy nội lực trong nhân dân, tạo tiền đề quan trọng để khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh tại chỗ, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân cũng như thực hiện tốt công tác giảm nghèo bền vững. 
Ba là, phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện chính sách an sinh xã hội; quan tâm cho giáo dục và y tế, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống góp phần nâng cao dân trí và đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân.
Bốn là, kết hợp đồng bộ và thực hiện có hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng với công tác vận động quần chúng, giữ vững kỷ cương và phát huy dân chủ ở cơ sở góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Năm là, cấp ủy, chính quyền thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ, đặc biệt là cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện.

 

 
Quá trình hình thành và Phát triển >> Cơ cấu tổ chức  >>
Thành tựu giai đoạn 2010-2015 >> Định hướng phát triển giai đoạn 2015-2020 >>
   
ĐĂNG KÝ NHẬN TIN

customer-service.png THÔNG TIN LIÊN HỆ:

1478004194_map-icon.png Địa chỉ: 04 Trần Phú, TT Kon Dỡng,
 Mang Yang, Gia Lai
1490597482_Phone.png Điện thoại: (0269).3839302
1478004801_fax-(1).png  Fax: (0269).3839302
1478004004_Mail.png  Email: ubndmangyang@gialai.gov.vn
 
contract-(4).png THÔNG TIN BẢN QUYỀN:

Bản quyền thuộc về UBND huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai
Chịu trách nhiệm chính: Ông Krum Dam Đoàn - Phó Chủ tịch huyện
Giấy phép số: 12/GP-TTĐT ngày 29/11/2016 của Sở Thông tin và Truyền thông
   Copyright © 2017 
Trang chủ | Tin tứcLiên hệ | Site map icontop.png